Bài viết mới
Chia sẻ bài viết
Đậu tương – tận dụng tối đa lượng phân bón cho cây đậu tương
Đậu nành hay đỗ tương, hoặc đậu tương (tên khoa học Glycine max) là loại cây họ Đậu (Fabaceae), là loài bản địa của Đông Á. Loài này giàu hàm lượng chất đạm protein, được trồng để làm thức ăn cho người và gia súc.
Cây đậu nành là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Sản phẩm từ cây đậu nành được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu nành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa đậu nành, okara… đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người cũng như gia súc
Ngoài ra, trong cây đậu tương còn có tác dụng cải tạo đất, tăng năng suất các cây trồng khác. Điều này có được là hoạt động cố định N2 của loài vi khuẩn Rhizobium cộng sinh trên rễ cây họ Đậu.
Phân bón đậu nành: giúp đậu nành khỏe mạnh và năng suất cao hơn
Bón phân cung cấp kali làm tăng năng suất. Thực hiện theo khuyến nghị về việc sử dụng phân bón đậu tương
Đậu tương (Glycine max L. Merrill) là một trong những nguồn thực phẩm và thức ăn chăn nuôi quan trọng nhất. Lợi nhuận cao của đậu tương thu hút ngày càng nhiều người trồng và ngày nay là một trong những loại cây trồng quan trọng nhất được kinh doanh trên thế giới và diện tích trồng đang tăng lên hàng năm. Trồng đậu tương tập trung về mặt địa lý chủ yếu ở Hoa Kỳ, Brazil và Argentina, và các nhà xuất khẩu đậu tương lớn là Hoa Kỳ, Brazil, Argentina, Paraguay, Canada, Uruguay và Ukraine.
Dinh dưỡng qua rễ là việc sử dụng dung dịch phân bón vào rễ. Dinh dưỡng qua rễ là một phương pháp hiệu quả để khắc phục các nhu cầu đặc biệt của cây trồng vì phân bón rễ được hấp thụ ngay tại nơi chúng được sử dụng. Bón phân qua rễ làm tăng khả năng hấp thụ và thúc đẩy cây trồng trong điều kiện khắc nghiệt như bệnh tật hoặc điều kiện đặc biệt của đất (lũ lụt, khô hạn, v.v.) hoặc ở các giai đoạn sinh lý cụ thể. Khi cây được nuôi dưỡng tốt, chúng có khả năng chống lại mầm bệnh cao hơn và cây có thể cho năng suất gần như bình thường mặc dù hệ thống vận chuyển chất dinh dưỡng hoặc rễ bị tổn thương do bệnh gây ra.
Kể từ khi vỏ đậu bắt đầu phát triển trên cây đậu tương, cây trồng cần một lượng lớn kali. Một phần kali cần thiết có thể được cung cấp khi bón qua rễ và nó có thể ngăn ngừa sự mất kali từ lá sẽ ảnh hưởng đến quá trình quang hợp và hệ thống rễ.
Một số bài báo khoa học cho thấy cây đậu tương được chăm sóc tốt sẽ tăng năng suất và giảm tỷ lệ mắc bệnh cũng như mức độ nghiêm trọng của bệnh. Vì lý do đó, việc bón kali nitrat qua rễ ngày càng phổ biến đối với người trồng đậu tương. Các thử nghiệm khác nhau trên thực địa với Hữu cơ khoáng làm phân bón đậu tương cho thấy rằng bón qua rễ đã thúc đẩy năng suất cây đậu tương.
Một nghiên cứu tiến hành thử nghiệm phương pháp bón phân qua rễ trên cây đậu tương. Kết quả của những nghiên cứu này đã liên tục chỉ ra rằng bón phân NPK làm tăng năng suất và cây cối khỏe mạnh hơn.
Một số kết quả thử nghiệm đại diện cho kinh nghiệm tích lũy của các nhà nghiên cứu được thể hiện cho thấy kết quả của 10 thử nghiệm thực địa .Trong các thử nghiệm này, năng suất tăng 3% -19%. Biểu đồ 1. cho thấy mối quan hệ giữa các công thức phân bón lá khác nhau và thời gian bón đến năng suất đậu tương.
Dựa trên hơn 10 năm kinh nghiệm về phân bón rễ và phân bón đậu tương, nhóm nghiên cứu nông học đã đưa ra kết luận là:
- Đậu tương đáp ứng với phân bón rễ NPK và PN
- Đáp ứng cao hơn trong các điều kiện không tối ưu
- Phản ứng tốt hơn với một giống cây trồng năng suất thấp
- Cây khỏe mạnh hơn, chống chịu sâu bệnh tốt hơn
- Cây đậu tương ít bị căng thẳng hơn trong thời kỳ hạn hán
- Thêm ít nhất 5% số quả trên mỗi cây
- Trọng lượng trung bình của hạt: nặng hơn đến 5%
- Sản lượng cao hơn tới 15%
Supe Lâm Thao đề xuất hai lần bón rễ Hữu cơ khoáng 4-16-4+4S như một phần của chương trình bón phân tổng thể với phân bón đậu tương:
Bón lần đầu vào giai đoạn V3 (giai đoạn sinh dưỡng cuối cùng trước khi ra hoa): 3,0% (3 kg/ha) 100 L/ha
Bón lần hai ở giai đoạn R3 (Quả có 0,5 đến 1,5 cm ở phần trên thứ ba của thân chính): 5,0% (5 kg/ha) 100 L/ha
Quy trình bón phân Lâm Thao dành cho cây đậu tương
Cây đậu tương (còn gọi là đỗ tương, đậu nành, tên khoa học là Glycine max (LMerrill), ở nước ta được chia thành 3 nhóm: Nhóm chín rất sớm thời gian sinh trưởng 60-80 ngày; nhóm chín sớm thời gian sinh trưởng 80 – 90 ngày; nhóm chín trung bình thời gian sinh trưởng hơn 90 ngày
Đậu tương có thể được trồng trên nhiều loại đất có thành phần cơ giới khác nhau như đất sét, sét pha thịt, đất thịt, thịt pha cát, đất cát; có thể trồng trên các địa hình khác nhau như ở các vùng đất cao, hạn (trồng lúa thì cao, trồng ngô thì úng, năng suất thấp), vùng đồi thấp, ít dốc, có mưa đều quanh năm, đất có địa hình thấp như đất chuyên trồng 2 vụ lúa; có thể trồng trên nhiều loại đất như phù sa cổ, đất xám bạc màu, đất cát thô ven biển, đất bazan bị thoái hoá, đất phèn.
Đậu tương có thể chịu được pH = 4-9, thích hợp nhất pH = 6-7.
| Loại phân bón | Kg/Sào Bắc Bộ 360 m2 | Kg/ha | ||
| Bón lót | Bón thúc(Cây có 3 – 5 lá) | Bón lót | Bón thúc(Cây có 3 – 5 lá) | |
| Phân chuồng | 200 – 300 | 5.500 – 7.000 | ||
| NPK-S *M15-10-3+8S | 10-15 | |||
| NPK-S 3-9-6+6S | 10 – 15 | 300 – 400 | ||
| NPK-S 3-9-6+6S | 300 – 410 | |||
Thời điểm tối ưu cho dinh dưỡng trong đậu tương
Khởi tạo nhóm được cho là giai đoạn thích hợp nhất để áp dụng NPK
| Cây trồng | Đậu tương | |||
| Vị trí | ||||
| Mục tiêu | Tăng sản lượng | |||
| Sản phẩm Supe Lâm Thao đã thử nghiệm | NPK-S | |||
| Phương pháp bón phân | Dinh dưỡng qua rễ | |||
| Giải pháp đã thử nghiệm | 1x 3% hoặc 1x 6% hoặc 3x 6% NPK-S ở 200 lit./ha, kết hợp với thuốc trừ sâu (chống sâu bướm ăn gốc thân) ở ba giai đoạn sinh lý khác nhau: bắt đầu ra hoa, bắt đầu ra quả và bắt đầu đậu trái | |||
| Địa điểm: Kiểm soát kết quả xử lý Kg/ha | Mộc Châu 2328 | Quảng Điển 4438 | Phú Lộc 4517 | Hòa Vang 2160 |
| Kết quả xử lý tốt nhất Kg/ha | 2735 | 5030 | 5030 | 2579 |
| Đặc điểm của bón phân tốt nhất | Thời điểm tốt nhất ở tất cả các vị trí là bón NPK-S khi bắt đầu nhóm. Trong ¾ trường hợp, 6% cho kết quả tốt nhất. Ở một vị trí, 3% NPK-S thậm chí còn tốt hơn. Kết quả thu được ở Mộc Châu là rất có ý nghĩa về mặt thống kê (P <0,01), và giá trị trung bình của tất cả các vị trí đều có ý nghĩa (P <0,05). Tăng năng suất trung bình: 0,4 tấn / ha Doanh thu của người trồng từ năng suất: 15 triệu / tấn Chi phí xử lý (chỉ nguyên liệu): 200.000 VNĐ/ha | |||
| Lợi ích ròng của bón phân tốt nhất | 0,4 x 155 –6 = 900 VNĐ | |||
| Tỉ suất lợi nhuận | 62/6 = 10,3 | |||
| Kết luận | Thí nghiệm này bổ sung cho một số kết quả khả quan trước đó cho thấy giá trị có lợi đáng kể cho người trồng đậu tương. Do đó, kết quả của thí nghiệm này có thể được thực hiện cho tất cả các máy kéo phun ở thể tích 100-200 L/ha. Thí nghiệm này nên được theo sau bởi một thí nghiệm với 20-40 L/ha (tỷ lệ được sử dụng trong bón rễ), và 9-12% NPK-S. | |||
| Người thực hiện | TS. Lân Dũng và Kỹ sư Long và Viện Nông nghiệp Quốc gia | |||