Bài viết mới
Chia sẻ bài viết
Tùy thuộc vào khí hậu, có thể cần phủ lớp mùn trong mùa đông trong trường hợp trồng lâu năm. Cây ưa ánh nắng, với đất thoát nước tốt, có thể phát triển đến chiều cao từ 60 đến 91.44 cm với độ lan rộng từ 30 đến 38 cm. Để sử dụng tươi, thu hoạch các nhánh của cây khi cần thiết hoặc để bảo quản, thu hoạch toàn bộ cây và phơi khô.
Ngải thơm, ngải giấm hay ngổ đắng tại vườn nhà
Tùy thuộc vào khí hậu, có thể cần phủ lớp mùn trong mùa đông trong trường hợp trồng lâu năm. Cây ưa ánh nắng, với đất thoát nước tốt, có thể phát triển đến chiều cao từ 60 đến 91.44 cm với độ lan rộng từ 30 đến 38 cm. Để sử dụng tươi, thu hoạch các nhánh của cây khi cần thiết hoặc để bảo quản, thu hoạch toàn bộ cây và phơi khô.
Chọn giống
Người mua muốn bắt đầu trồng ngải giấm sẽ phải đối mặt với nhiều loại giống khác nhau. Mặc dù không phải phân loại loài khác, tuy nhiên nhiều loại ngải giấm có hương vị kém hơn rất nhiều. Người mua có thể gặp phải sâu bướm khi họ trồng loại thảo mộc này từ hạt giống, vì ngải giấm hầu như chỉ là trồng bằng phương pháp sinh dưỡng. Tham khảo ý kiến một người có uy tín tại vườn ươm hoặc trung tâm cây giống khi mua cây ngải giấm để đảm bảo bạn có được loại mong muốn.
Cách trồng
Đất: Cây ngải giấm phát triển tốt nhất trong điều kiện ấm áp, đất khô, thoáng khí tốt và không chịu ẩm ướt hoặc đất bão hòa. Cây ngải giấm phát triển tốt ở đất có độ pH trung tính (pH 6,5-7,5), nhưng có một số ưa thích đất hơi chua. Hầu hết các loại đất ở Việt Nam thích hợp để trồng ngải giấm miễn là chúng được thoát nước tốt.
Chuẩn bị đất: Trước khi trồng, kết hợp 3 đến 5 cm phân hữu cơ đã ủ kỹ hoặc ½ muỗng canh phân bón đa dụng trên diện tích 0,3 m2 trồng trọt. Bổ sung phân hữu cơ hoặc phân bón của Supe Lâm Thao lên trên bề mặt của đất từ 15 đến 20 cm. Bổ sung chất hữu cơ vào đất sẽ giúp cải thiện sục khí và thoát nước.
Nhân giống: Ngải giấm nhân giống hầu như chỉ từ giâm cành và sự phân chia gốc rễ. Hạt giống hiếm khi được trồng vì cây ngải giấm hiếm khi ra hoa, kết quả là ít hạt giống sẵn có. Hãy cẩn thận khi nhân giống từ bộ phận rễ. Rễ cây ngải giòn; vì thế hãy sử dụng dao thay vì xẻng hoặc cuốc khi nhân giống các cây mới. Sự phân chia gốc phải được được thực hiện vào mùa xuân. Bạn nên lấy ba đến năm cây mới từ mỗi cây mẹ.
Ngải giấm cũng nhân giống bằng cách giâm cành từ thân non. Thu hái thân cây vào sáng sớm. Cắt khoảng 10 đến 15 cm thân cây ngay bên dưới một mấu (đốt, mắt) và loại bỏ 1/3 lá. Nhúng đầu cắt vào rễ dung dịch khích thích mọc rễ và trồng trong bầu ấm và ẩm, phun sương theo định kỳ.
Sau khi rễ hình thành, cấy vào vườn và trồng.
Trồng và Khoảng cách: Cấy ghép ngải giấm vào mùa xuân, sau đợt sương giá cuối cùng, để đảm bảo sự sống của các chồi non mềm. Ngải giấm thích ánh nắng đầy đủ và nhiệt độ ấm áp nhưng không nóng. Ở những khu vực mà nhiệt độ mùa hè vượt quá 32°C, tạo vùng che bóng một phần của ngải giấm làm tăng khả năng sống của cây trồng.
Trồng cây ngải giấm cần cách nhau 60 cm và thường xuyên cắt tỉa để duy trì hình thức của nó.
Nhân giống vào mùa xuân, như đã mô tả ở trên, để duy trì sức sống cây trồng. Ngải giấm nên được cải tạo sau mỗi 2 đến 3 năm để duy trì hương vị và sự phát triển mạnh mẽ.
Nước: Cây ngải giấm hoạt động tốt nhất khi đất được để khô giữa các lần tưới. Phủ lớp phủ xung quanh cây để giữ độ ẩm gần bề mặt đất, vì ngải giấm có rễ ăn nông. Tưới nước quá nhiều hoặc đất kém thoát nước sẽ làm thối rễ. Tưới nước thường xuyên cho cây non cho đến khi cây đã mọc, và tưới cây hiện có mỗi tuần một lần.
Bón phân: Cây ngải giấm có yêu cầu thấp về phân bón. Như với nhiều loại thảo mộc, hương vị ngải giấm được tăng cường khi được trồng trong môi trường đất nghèo dinh dưỡng nên chỉ bón lót khi trồng.
Các vấn đề
Cỏ dại: Phủ cây ngay khi chúng mới được trông hoặc khi thân cây nổi lên giúp ngăn ngừa cỏ dại từ khi mới bắt đầu. Nếu cần làm cỏ, cần canh tác không quá sâu để tránh làm hư hại rễ nông, làm như vậy sẽ làm chậm sự phát triển của cây.
Côn trùng/Bệnh tật: Nói chung ngải giấm là loại cây gần như không có côn trùng và dịch bệnh.
Ngải giấm dễ bị thối rễ nếu tưới quá nhiều nước và/hoặc đất thoát nước kém.
Thu hoạch và bảo quản
Tươi: Cây ngải giảm thường được sử dụng như một loại thảo mộc tươi và các nhánh có thể được thu hoạch khi cần thiết trong suốt mùa sinh trưởng. Cành thường có chiều dài bằng một phần ba chiều dài của thân.
Sấy khô/Đông lạnh: Ngải giấm có thể được sấy khô, nhưng hương vị bị giảm sau khi sấy khô. Đối với ngải giấm khô, vụ thu hoạch đầu tiên từ 6 đến 8 tuần sau khi cây bắt đầu phát triển và vụ thu hoạch thứ hai trước khi có sương giá mùa thu đầu tiên.
Để làm khô ngải giấm, bó lại và treo những cành đã thu hoạch ở nơi tối thoáng mát. Sau khi khô, vò nát lá cho vào hộp kín và bảo quản trong bóng tối hoặc tủ đông. Có thể sấy khô lá ngải giấm trong lò vi sóng ở nhiệt độ cao trong 2 phút. Ưu điểm của phương pháp này là lá giữ được nhiều màu sắc và hương vị ban đầu hơn. Lá hoặc cành tươi cắt nhỏ có thể được đông lạnh trong túi đông kín và sử dụng khi cần thiết.
Vượt qua mùa đông: Khi trồng ngải giấm lâu năm, xén và trồng cây xuống đất ngay sau khi sương giá giết chết sự phát triển của ngọn, sau đó phủ nhiều lớp phủ trước mùa đông để đảm bảo sự sống sót.
Cây ngải giấm có thể trồng trong chậu. Sau khi thu hoạch vào mùa thu, mang cây vào trong nhà, tưới nước và bón phân để kích thích tăng trưởng và đặt cây ở nơi có ánh nắng trực tiếp 6 giờ mỗi ngày.
Công dụng/Dinh dưỡng
Ngải giấm được sử dụng để tạo ra giấm và hương vị cá, nhưng cũng thường được sử dụng để tạo hương vị cho rau và thịt (động vật có vỏ, thịt gia cầm và thịt đỏ). Cây ngải giấm thường được sử dụng trong sản xuất nước hoa, mù tạt Dijon và nhiều loại gia vị khác. Cây ngải giấm là một nguồn cung cấp canxi, niacin, kali, vitamin B1 và vitamin A.
Một chương trình bón phân hoàn chỉnh để trồng cây ngải giấm và hẹ bằng phân bón Supe
I. Khi cấy
Nhúng cây được ươm cấy vào dung dịch 2% phân bón NPK-S™ 16-16-8+6S hoặc + Mg + S + Fe, Zn
II. Tưới phân cho giai đoạn gieo trồng
Nồng độ chất dinh dưỡng tối ưu trong nước tưới (ppm)
| N | P 2 O 5 | K 2 O | CaO | MgO | Fe |
| 100-110 | 70-90 | 100-120 | 110-140 | 60-75 | 0,8-1,2 |
Sự kết hợp tối ưu của các loại phân bón trong nước tưới (g/m³)
| NPK-S | NPK | Magie sulphat | Canxi nitrat |
| 240 | 130 | 420 | 470 |
III. Bón phân cho mùa sinh trưởng chính
Nồng độ dinh dưỡng tối ưu trong nước tưới (ppm)
| Mùa | N | P 2 O 5 | K 2 O | CaO | MgO |
| Mùa thu | 90-100 | 70-90 | 100-120 | 100 | 60 |
| Mùa đông* | 140-150 | 100 | 180 | 120 | 70 |
| Mùa xuân | 100-120 | 50-60 | 140-160 | 100 | 60 |
Sự kết hợp tối ưu của các loại phân bón trong nước tưới ** (g/m³)
| Mùa | NPK-S | NPK | Canxi nitrat | Magie sulphat |
| Mùa thu | 240 | 130 | 380 | 375 |
| Mùa đông* | 390 | 165 | 450 | 440 |
| Mùa xuân | 325 | 90 | 380 | 375 |
* Sự gia tăng nồng độ cần thiết có nghĩa là để bù đắp cho lượng nước hấp thụ giảm.
** pH của nước tưới nên được duy trì ở mức 5,8-6,2
Nhạy cảm với độ mặn: Ngổ hay ngải giấm nhạy cảm vừa phải với EC cao và với clorua. Phải thực hiện các bước thích hợp để tránh tích tụ mặn và sử dụng KCl làm phân bón kali.
Sự tăng trưởng và năng suất của cây thảo dược có mối liên hệ chặt chẽ với các điều kiện khí tượng và quy trình kỹ thuật nông nghiệp.Chúng tôi tiến hành các nghiên cứu về việc xác định ảnh hưởng của mật độ trồng cây ngải giấm đối với năng suất thảo mộc tươi và khô, cũng như hàm lượng các chất bổ dưỡng và hoạt tính sinh lý: axit L-ascorbic, chất diệp lục, carotenoid, tannin và flavonoid, cũng như hàm lượng, sản lượng và thành phần hóa học của tinh dầu.
Hiệu quả đáng kể của mật độ trồng được chứng minh dựa trên năng suất thảo mộc tươi và khô, năng suất thảo mộc bào và năng suất tinh dầu.
Cây ngải giấm trồng ở mật độ cao hơn (40 × 40 cm) có năng suất thảo mộc tươi, khô và bỏ cuống cao hơn, cũng như năng suất dầu cao hơn so với cây trồng với mật độ thấp hơn (50 × 50 cm).
Giá trị sinh học được phân tích đánh giá là cao và phụ thuộc vào mật độ trồng ở một mức độ không đáng kể.
Những cây mọc với mật độ dày hơn có nồng độ carotenoid cao hơn đáng kể và hàm lượng tinh dầu thấp hơn so với những cây còn lại. Tinh dầu của Artemisia dracunculus L. được đặc trưng bởi sự hiện diện của 46 hợp chất chiếm tỷ lệ> 0,05% và 23 hợp chất xuất hiện ở dạng vết.
Hợp chất chủ yếu trong dầu ngải giấm được kiểm tra là metyl eugenol, xuất hiện với số lượng lớn hơn vào năm 2012 (37,56%), so với năm 2011 (34,33%). Các hợp chất chính khác là: elemicin, với hàm lượng 21,95 và 26,22%; sabinene, với hàm lượng 14,16 và 16,37%, cũng như E-asarone, ở nồng độ 8,68 và 3,49% (tương ứng: năm 2011 và 2012).
Cây ngải giấm trong chậu được trồng trong nhà kính trong thời gian ngắn ngày (8 giờ) hoặc dài ngày (16 giờ), kết hợp với việc xử lý trước bằng phun axit gibberellic (GA 3 ), hoặc vài tuần ở nhiệt độ 4 ° C.
Kéo dài thời gian ngày thúc đẩy sự phát triển của chồi trong khi những cây trồng trong thời gian ngắn ngày thường phát triển ở dạng hoa thị gốc. Không cần thiết phải xử lý trước lạnh để phá vỡ trạng thái ngủ đông; tuy nhiên, nó đã làm tăng đáng kể tổng sản lượng. Tiền xử lý GA 3 không thành công bằng việc thúc đẩy sự mọc lại. Việc thu hoạch thường xuyên các tán lá kích thích sự phát triển trong những ngày dài.